[Nghiên cứu] Nguy cơ ung thư với phụ nữ mắc hội chứng Lynch

Lynch là một hội chứng rối loạn di truyền trội ở trên nhiễm sắc thể thường đột biến dòng mầm xảy ra trong các gen sửa chữa sai lệch DNA. Những người mang đột biến dòng mầm trong các gen sửa chữa sai lệch DNA (MMR) có nguy cơ mắc ung thư đại trực tràng, nội mạc tử cung và các bệnh ung thư khác cao hơn so với người bình thường với chẩn đoán ban đầu là ung thư đại trực tràng.

Ước tính cho thấy nguy cơ mắc ung thư sau chẩn đoán ung thư nội mạc tử cung ở phụ nữ mang đột biến gen MMR tăng. Trước tình hình này đã có một cuộc điều tra nghiên cứu lớn để đánh giá chính xác vấn đề này.

Nghiên cứu của tác giả về nguy cơ ung thư với phụ nữ mắc hội chứng Lynch

Nguy cơ ung thư với phụ nữ mắc hội chứng Lynch

Phương pháp

Với việc thu thập dữ liệu từ một nhóm thuần gồm 127 phụ nữ chẩn đoán mắc ung thư nội mạc tử cung và mang đột biến ở một trong 4 loại gen MMR: 30 người mang đột biến ở MLH1, 72 người mang đột biến ở MSH2, 22 người mang đột biến ở MSH6, 3 người mang đột biến ở PMS2.

Phương pháp được các lựa chọn sử dụng là Kaplan-Meier[1] ước tính rủi ro tích lũy đối với mỗi bệnh ung thư trong vòng 10 và 20 năm. Từ đó đã ước tính được tỉ lệ mắc bệnh chuẩn hóa cụ thể theo từng độ tuổi, quốc gia và chu kỳ lịch của các bệnh nhân.

Kết quả

Kết quả nghiên cứu cho thấy sau ung thư nội mạc tử cung thì các phụ nữ mang đột biến gen MMR sẽ có nguy cơ mắc ung thư trong 20 năm:

  • Ung thư đại trực tràng: nguy cơ mắc là 48% với khoảng tin cậy 95%[CI] = 35% – 62%.
  • Ung thư thận, bể thận hoặc niệu thận: nguy cơ mắc là 11%, KTC 95% = 4 -19%.
  • Ung thư bàng quang tiết niệu: nguy cơ mắc là 9%, KTC 95% = 2 – 17%.
  • Ung thư vú: nguy cơ mắc là 11% , KTC 95% = 4 – 19%.

Nếu so với dân số nói chung thì những người phụ nữ mang đột biến gen MMR có nguy cơ mắc ung thư đại trực tràng lên đến 58,3%, ung thư thận, bể thận, niệu quản là 48,6%, ung thư bàng quang tiết niệu 42,9%, ung thư vú 4,14%. 

Kết luận

Những phụ nữ mắc hội chứng Lynch hay mang đột biến gen MMR đã được chẩn đoán mắc ung thư nội mạc tử cung sẽ có nguy cơ cao mắc một số căn bệnh ung thư khác trong đó có ung thư vú. 

Nguy cơ ung thư với phụ nữ mắc hội chứng Lynch 

hội chứng lynch

Theo thống kê thì có khoảng 5% phụ nữ mắc ung thư nội mạc tử cung có nguyên nhân bắt nguồn từ tiền sử gia đình bị ung thư nội mạc tử cung. Trong đó có 2% bệnh nhân có tiền sử gia đình từng mắc ung thư đại trực tràng.

Với khoảng 2% bệnh nhân mắc ung thư nội mạc tử cung và 6% mắc ung thư nội mạc tử cung được chẩn đoán trước 70 tuổi là do hội chứng Lynch gây ra. Hội chứng di truyền trội trên NST này thường xuất hiện là do đột biến dòng mầm ở một trong bốn gen không được sửa chữa một cách phù hợp DNA.

Bao gồm các gen MLH, MSH2, MSH6 PMS2, ngoài ra còn có nguyên nhân khác là do mất đoạn trong gen EPCAM làm bất hoạt MSH2 có vị trí nằm gần đó. Ngoài việc tăng nguy cơ mắc ung thư đại trạng và nội mạc tử cung thì những người mang đột biến gen MMR về cơ bản cũng tăng nguy cơ mắc các bệnh ung thư khác như ung thư dạ dày, buồng trứng, ruột non, đường tiết niệu, gan mật, tuyến tụy. 

Nguy cơ mắc ung thư ở người mang đột biến gen MMR sau chẩn đoán

Sau khi được chẩn đoán tỉ mỉ về ung thư nội mạc tử cung ở người mang đột biến gen MMR chưa được làm rõ về nguy cơ mắc ung thư tiếp theo. Về nguy cơ ung thư khi chẩn đoán ung thư nội mạc tử cung ở phụ nữ mắc hội chứng Lynch đã được chỉ ra tại một nghiên cứu và đưa ra các ước tính. Nguy cơ tích lũy của ung thư đại trực tràng là 40% còn nguy cơ tích lũy của bất kỳ khối u ác tính nào khác là 75%, tất cả đều trong vòng 26 năm ung thư nội mạc tử cung. 

Hạn chế là nghiên cứu này chỉ được điều tra ở quy mô nhỏ với 39 phụ nữ tham gia nghiên cứu và sử dụng tiêu chí lấy tiền sử gia đình mắc bệnh có liên quan đến đột biến gen MMR để chẩn đoán xem họ có mắc hội chứng Lynch hay không, chứ không phải tìm kiếm xem có tình trạng đột biến gen MMR của họ hay không.

Các kiến thức và nguy cơ mắc các bệnh ung thư tiếp theo đối với những người mang đột biến gen MMR và được chẩn đoán mắc ung thư nội mạc tử cung bị ảnh hưởng tới quản lý lâm sàng của họ, đặc biệt là việc giám sát ung thư sau đó của họ. Ước tính nguy cơ mắc ung thư đại trực tràng và các bệnh ung thư khác sau ung thư nội mạc tử cung được xác nhận mang đột biến gen MMR ở phụ nữ. 

Nguy cơ gia tăng các bệnh ung thư trong đó có ung thư vú

ung thư vú

Các nghiên cứu về nguy cơ mắc ung thư vú ở bệnh nhân có hội chứng Lynch trước đây hầu như đều tập trung vào nguy cơ mắc bệnh ung thư đầu tiên với các điều tra về nguy cơ mắc ung thư sau chẩn đoán ban đầu. Ung thư nội mạc tử cung được chẩn đoán phổ biến nhất ở đối tượng phụ nữ mắc hội chứng Lynch trong số các bệnh ung thư khác.

Làm rõ nguy cơ mắc các bệnh ung thư tiếp theo là một trong những điều kiện để phát triển các chiến lược giám sát ung thư ở những người sống sót sau điều trị ung thư nội mạc tử cung. Rủi ro được ước tính đối với phụ nữ mang hội chứng Lynch được chẩn đoán mắc ung thư nội mạc tử cung và nguy cơ gia tăng đối với các bệnh ung thư khác. 

Các bệnh ung thư xảy ra sau ung thư nội mạc tử cung nhìn chung đều không nằm ngoài các dự đoán về nguy cơ ung thư đầu tiên được mô tả trước với phụ nữ mang đột biến gen MMR. Một ngoại lệ đáng được chú ý là các bệnh ung thư xảy ra sau ung thư nội mạc tử cung trong nghiên cứu không nằm ngoài dự đoán về nguy cơ ung thư đầu tiên đối với phụ nữ mang đột biên MMr làm nguy cơ mắc ung thư vú tăng lên. 

Việc kiểm tra chụp nhũ ảnh phổ biến ở những phụ nữ mang đột biến gen MMR khiến cho chẩn đoán ung thư vú chuyển tiếp được phát hiện sớm. Sau một nửa số trường hợp bệnh nhân mắc hội chứng Lynch không có biểu hiện protein sửa chữa sai lệch cần phải phù hợp với gen đột biến.

Đột biến dòng mần có trong gen MMR góp phần vào tốc độ phát triển của ung thư vú ở một vài đối tượng phụ nữ. Tỷ lệ mắc ung thư vú thiếu MMR cao hơn có ý nghĩa thống kê ở những người mang đột biến so với người không mang đột biến là 65% so với 0%.

Ngoài ra nguy cơ ung thư vú tăng lên đối với phụ nữ mang đột biến gen MMR, cứ 20 năm là 11%. Ngưỡng nguy cơ ung thư vú cần thiết cho việc sàng lọc bằng sàng lọc MRI được Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ kiến nghị là trong khoảng từ 20 – 25%.

Nguy cơ mắc ung thư tiếp theo 

Nguy cơ mắc ung thư tiếp theo tại các phụ nữ mang đột biến gen MMR đã mắc ung thư nội mạc tử cung có sự khác biệt với các phụ nữ không mắc bất kỳ bệnh ung thư nào khác. Điều này có thể là do ảnh đa gen không đo lường được dẫn đến sự xâm nhập của ung thư đầu tiên.

Ước tính nguy cơ ung thư sau ung thư nội mạc tử cung không có khác biệt đáng kể ở người mang đột biến gen MMR không bị ung thư. Các nguy cơ ung thư sau ung thư nội mạc tử cung và các nguy cơ ung thư được báo cáo sau ung thư đại trực tràng ở người mang đột biến gen MMR được đem ra so sánh và nhận thấy có sự trùng lặp lớn về các ước tính ung thư. Từ đó kết luận rằng không có bằng chứng nào cho thấy tồn tại sự khác biệt đáng kể về nguy cơ của ung thư ban đầu ở bất kể vị trí nào.

Nguy cơ mắc ung thư đại trực tràng sau ung thư nội mạc tử cung cho MSH6 đột biến thấp hơn so với MLH1 và MSH2 đột biến. Phát hiện này rất phù hợp với nguy cơ ung thư thấp hơn ở người mang đột biến MSH6 với MLH1 và MSH2 không được chẩn đoán ung thư trước đó.

Các hạn chế của nghiên cứu

  • Không đủ sức mạnh để thống kê phân biệt đầy đủ các nguy cơ ung thư đối với người mang đột biến gen MMR.
  • Không có thông tin về lịch sử điều trị khiến cho việc chẩn đoán ban đầu ung thư nội mạc tử cung không thực hiện được, từ đó ảnh hưởng đến nguy cơ ung thư tiếp theo sau này.
  • Kết quả không áp dụng được cho phụ nữ có tiên lượng xấu do khả năng được đưa vào phân tích này là rất ít.
  • Thiếu dữ liệu tỷ lệ mắc bệnh, khó có thể ước tính SIRs theo vị trí cụ thể riêng biệt ở các bệnh nhân mắc ung thư thận, bể thận, niệu quản. Thay vào đó là báo các các rủi ro cho tất cả các bệnh nhân mắc ung thư đường tiết niệu cộng lại.
  • Dữ liệu hạn chế về  các loại polyp đại trực tràng được cắt bỏ nên chỉ kiểm duyệt được đối tượng thay vì ước tính nguy cơ mắc ung thư đại trực tràng sau khi đã được phẫu thuật cắt bỏ. 
  • Không thể biết được chắc chắn liệu những phụ nữ được nghiên cứu có thông báo kịp thời về tình trạng đột biến gen MMR của họ không. Thử nghiệm đột biến gen cần được thực hiện trong bối cảnh gia đình nên mỗi người cần có kiến thức về tình trạng đột biến gen MMR và có sự thay đổi về tần suất theo dõi polyp và ung thư đại trực tràng của các bác sĩ điều trị.

Kết

Đột biến gen MMR ở phụ nữ được chẩn đoán mắc ung thư nội mạc tử cung có nguy cơ mắc một loạt các bệnh ung thư khác trong đó có ung thư vú. Nghiên cứu diễn ra giúp cung cấp số liệu chính xác về nguy cơ ung thư và cung cấp cơ sở cho chiến lược quan sát lâu dài và giảm rủi ro.

Hy vọng bài viết đã mang đến cho bạn một cái nhìn chân thực và khách quan về nguy cơ ung thư với phụ nữ mắc hội chứng Lynch. Theo dõi CHEK Genomics chúng tôi để nhận bản tin sức khỏe hàng ngày bạn nhé.

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x